
 |
Tommy Thompson gìà nua khi xuất hiện tại Tòa án ở Columbus, Ohio năm 2018. |
Tiền xu và các vật phẩm bằng vàng khác được thu hồi từ cuộc khai quật do công ty Odyssey Marine tiến hành (khi Thompson đang chạy trốn) đã mở màn cuộc triển lãm ở Los Angeles vào tháng 2/2018 với số người tham dự kỷ lục.
Các nhà sưu tập tiền nhảy vào tìm cơ hội sở hữu một phần của kho báu lịch sử và tất cả các đồng tiền vàng đều được bán sạch, mang lại khoảng 30 triệu USD doanh thu, tương đương khoản lãi 15 triệu USD sau khi trừ chi phí trục vớt.
Sau khi trừ các chi phí hành chính, tòa án và các khiếu nại của chủ nợ, về mặt lý thuyết sẽ có một khoản chia lãi cho các nhà đầu tư trong công ty Recovery Limited Partnership (những người bỏ vốn trong lần đầu Thompson gọi vốn cho dự án tìm tàu đắm). Lần đầu tiên họ có thể thu hồi lại một số tiền, 33 năm sau khoản đầu tư ban đầu.
Tuy nhiên 500 đồng tiền vàng thì vẫn không một dấu vết. Thompson kiên quyết câm như hến, vì thế các vụ kiện từ năm nào vẫn tiếp tục.
 |
Tiền vàng trục vớt từ tàu đắm SS Central America. |
Trại cải tạo Liên bang ở Milan, Michigan là một nhà tù khổng lồ, bao quanh bởi dây thép gai. Trại nằm cách Columbus khoảng ba giờ lái xe, là nơi Thompson đã bị giam giữ suốt 4 năm, và nhiều khả năng vẫn là nhà của ông trong tương lai gần bởi án tù vô thời hạn vì tội khinh miệt tòa án và không chịu tiết lộ tung tích của lô tiền vàng.
Trong những năm ngồi tù ở Milan, hàng tháng Thompson đều xuất hiện bằng cầu truyền hình trước Thẩm phán Marbley, để trả lời câu hỏi ông có chịu tiết lộ nơi cất giấu những đồng tiền vàng hay không.
Có khi Thompson tuyên bố ông ta chưa bao giờ sở hữu chúng, rồi sau đó lại khai đã bán số vàng và bỏ tiền vào các quỹ ủy thác. Rồi có lúc Thompson lại cho biết số tiền vàng được giữ trong một tài khoản ủy thác tại ngân hàng ở Belize (quốc gia ở Trung Mỹ), nhưng không ai có thể truy cập quỹ này nếu không có giấy ủy quyền do Thompson ký tên.
Thẩm phán Marbley từ lâu đã nói rằng chìa khóa cho sự tự do của Thompson nằm trong tay chính ông, tùy thuộc vào việc ông có khai ra số tiền vàng hay không. Ngoài việc bị cầm tù, Thompson cũng đang bị phạt 1.000 đô-la cho mỗi ngày ông từ chối khai ra vị trí giấu tiền vàng, đồng nghĩa số tiền phạt hiện có thể đã lên tới gần 2 triệu đô-la.
 |
Thompson trong một bức ảnh do cảnh sát chụp sau khi bắt giữ ông. Ảnh: Dispatch |
Sự bế tắc kéo dài đã khiến nhiều người đặt câu hỏi tại sao ông ta không tiết lộ quách vị trí số tiền vàng cho xong. Nhưng thật khó để suy đoán động lực của Thompson. Một số người cho rằng ông ta “hy sinh đời bố củng cố đời con”, chấp nhận cầm tù để đảm bảo an ninh tài chính cho con cái mình.
Đúng 30 năm, 2 tháng sau khi kho báu được tìm thấy, ngày 5/11/2018 Tommy Thompson bị chở trên xe suốt ba tiếng đồng hồ từ nhà tù ở Milan, bang Michigan, tới Columbus, bang Ohio, để đứng trước phiên tòa xét xử và trả lời những câu hỏi mà nhiều người đã chờ đợi rất lâu.
Nhà khoa học săn tìm kho báu năm nào xuất hiện trước tòa trong chiếc áo véc màu xanh navy, áo sơ mi kẻ sọc sáng màu, râu và tóc bạc trắng, cột đuôi ngựa sau gáy.
Bằng chứng công bố tại tòa cho thấy Thompson sở hữu tài khoản ngân hàng ở Quần đảo Cook với hơn 4 triệu USD. Tuy nhiên, điều gây chú ý nhất là bằng chứng cho thấy ông ta đã để riêng vàng dưới đáy biển, có lẽ nhằm mục đích lấy làm của riêng sau đó. Trong cuộc trục vớt xác tàu Central America vào năm 2014, người ta đã tìm thấy những đồng tiền vàng và thỏi vàng được xếp đặt ngay ngắn trên các khay, tất nhiên không phải là những chiếc khay từ năm 1857.
Thompson cũng thừa nhận đã bỏ túi 500 đồng tiền vàng như một khoản thù lao mà ông xứng đáng được hưởng. Ông ta đã tìm mọi cách chuyển những đồng tiền đó đi giấu trên khắp đất nước.
Trong lời khai của mình, nữ trợ lý bỏ trốn cùng Thompson, Alison Antekeier nói rằng từ năm 2006 đến 2010, cô đã chuyển số vàng từ California đến một hộp ký gửi an toàn ở Jacksonville, sau đó đến một cơ sở lưu trữ ở Fort Lauderdale, và cuối cùng thông qua một người đàn ông tin tưởng để chuyển đến một quỹ tư nhân ở Belize.
 |
Thompson trong ảnh chụp năm 1991, đang nhìn ra con tàu Arctic Discoverer. Ảnh: Dispatch |
Đây là một tình huống khó khăn với Thompson, bởi chính ông cũng không thể tiếp cận số tiền vàng. Thompson không phải là người ủy thác cho ngân hàng quản lý vàng. Danh tính của người thụ hưởng trên quỹ tín thác hiện vẫn chưa rõ ràng. Vì thế, trước tòa Thompson tuyên bố ông ta thực sự không biết cuối cùng 500 đồng vàng đã đi đâu.
Sau nhiều tuần lấy lời khai, các luật sư đưa ra những lập luận cuối cùng của họ và bồi thẩm đoàn ra phán quyết. Thompson ngồi trên chiếc xe lăn, chân bị cùm, khi bản phán quyết chính thức được bồi thẩm đoàn trao cho thẩm phán. Sau nhiều thập kỷ nghiên cứu khoa học, nỗ lực khám phá, hứng chịu đủ mọi áp lực và cuộc sống chui nhủi trốn chạy, tất cả đã đi đến kết thúc.
Trong vụ kiện dân sự chống lại Thompson, tòa án xác định rằng bị cáo Thomas G. Thompson nợ Công ty In ấn Dispatch (từng đầu tư vào công ty của Thompson) 3,2 triệu USD, và 16,2 triệu USD của các nhà đầu tư khác, với tổng số tiền nợ là 19,4 triệu USD.
 |
Chinh phục được đại dương khi phát hiện ra con tàu đắm hơn một thế kỷ trước, nhưng Thompson cũng hứng chịu bao khổ sở, tù tội vì chính kho báu mình tìm ra. |
Trước đó, vụ kiện do 9 kỹ thuật viên định vị âm thanh tiến hành với cáo buộc Thompson lừa đảo cũng bị bác bỏ vào tháng 8/2018.
Sau phiên tòa, Thompson đã nộp đơn kháng cáo lên tòa án liên bang để được phóng thích. Thông thường, các đạo luật tái thẩm liên bang quy định giới hạn tù giam đối với các nhân chứng không hợp tác là tối đa 18 tháng. Thompson sẽ phải chờ phán quyết của hội đồng thẩm phán về việc giam giữ ông kéo dài có hợp lệ hay không.
Trong khi đó, Alison Antekeier vẫn sống kín đáo ở Columbus, mọi liên lạc với cô đều không được trả lời.
Tháng 4-2019, 12 người trong đội tìm kiếm và các nhà đầu tư vào công ty của Thompson đã nhận được số tiền còn lại theo hợp đồng với ông - ít hơn nhiều so với dự tính của họ 30 năm về trước.
Nhưng đối với Thompson thì đâu đã hết. Ông chưa được thả chừng nào còn chưa khai ra 500 đồng tiền vàng giấu ở đâu.
Hành trình của kho vàng trên tàu SS Central America có thể đã khởi đầu huy hoàng từ California, nhưng sau cái chết của 425 con người giữa Đại Tây Dương vào năm 1857, kho báu nằm im cả thế kỷ dưới đáy biển có lẽ đã vướng vào một lời nguyền bí ẩn, khiến bất cứ người nào dính đến nó đều mắc phải tai ương.
Cuộc chơi với vàng, thường luôn "bạc", đó là lời răn được đúc kết từ xa xưa. Chính người em họ của Thompson đã bình luận: “Nếu được làm lại từ đầu, ông ấy sẽ chẳng bao giờ đi tìm vàng. Không ai lại ném đời mình vào thứ vàng chóe và nặng nề đó”.
Theo baotintuc.vn
" alt="Cuộc trục vớt kho vàng lớn nhất nước Mỹ và lời nguyền của con tàu"/>
Cuộc trục vớt kho vàng lớn nhất nước Mỹ và lời nguyền của con tàu
Trong dư luận cũng nổ ra tranh cãi nảy lửa về việc ai hoặc điều gì phải chịu trách nhiệm cho sự xấu đi nghiêm trọng của mối quan hệ giữa hai nền kinh tế hàng đầu thế giới.Theo Hal Brands, giáo sư Trường nghiên cứu quốc tế tiên tiến thuộc Đại học Johns Hopkins (Mỹ) và Charles Edel, thành viên cấp cao tại Trung tâm nghiên cứu Mỹ thuộc Đại học Sydney (Australia), các cách "chẩn bệnh" khác nhau dẫn đến những cách "kê đơn" khác nhau.
Nếu các hành động và tham vọng toàn cầu của Mỹ gây khủng hoảng, Washington cần tránh những hành động nhiều khả năng chống đối Bắc Kinh. Song, nếu sự đối đầu là sản phẩm tất yếu của Trung Quốc thời kỳ này hoặc những căng thẳng nảy sinh giữa hai cường quốc trong một hệ thống quốc tế đầy cạnh tranh, Mỹ nên chấp nhận hiện trạng này và tìm cách triển khai một chiến lược đối phó tập trung và mang tính phối hợp hơn nữa.
Trong một bài phân tích mới đăng tải trên tạp chí Foreign Policy, ông Brands và ông Edel cho rằng, việc lật lại các bài học lịch sử của sự đổ vỡ quan hệ Mỹ - Liên Xô sau Thế chiến thứ hai sẽ giúp hiểu rõ các căn nguyên đẩy Mỹ và Trung Quốc tới thế bế tắc hiện tại cũng như việc Washington nên thoát ra như thế nào.
Nhìn lại Chiến tranh Lạnh Mỹ - Liên Xô
Trong giai đoạn 1945 - 1947, mối quan hệ Mỹ - Xô chuyển từ đối tác thời chiến căng thẳng nhưng hiệu quả thành sự đối đầu sâu sắc về ý thức hệ và địa chính trị, kéo dài hàng thập kỷ sau đó. Trên thế giới từng có 4 trường phái riêng rẽ nhằm lý giải nguồn gốc lịch sử của Chiến tranh Lạnh.
Cách hiểu đầu tiên, xuất hiện vào cuối những năm 1940 - 1950 quy trách nhiệm cho Liên Xô. Tuy nhiên, bắt đầu từ cuối những năm 1950, với ảnh hưởng ngày càng tăng của hiện tượng "vỡ mộng quốc gia" vì chiến tranh Việt Nam, các học giả thuộc chủ nghĩa xét lại đã đảo ngược cách hiểu nói trên. Họ quả quyết chính Washington là "tội đồ", chứ không phải Moscow.
Những người theo chủ nghĩa xét lại cho rằng, Mỹ từ lâu đã là một cường quốc bành trướng, tìm mọi cách mở rộng phạm vi ảnh hưởng kinh tế, thúc đẩy hệ thống chủ nghĩa tư bản thị trường và truyền bá các giá trị của mình ra khắp thế giới. Do đó, nhà lãnh đạo Joseph Stalin có mối quan tâm chính đáng ở Đông Âu và các chính sách của Washington đã buộc Moscow phải lựa chọn giữa bất an và đối đầu. Và gần như không có gì đáng ngạc nhiên khi Điện Kremlin chọn đối đầu.
Cách lý giải thứ ba kết hợp các thành tố của 2 cách hiểu đầu tiên. Các nhà sử học hậu xét lại thừa nhận Mỹ đã phạm sai lầm. Song, họ coi Chiến tranh Lạnh là điều không thể tránh khỏi. Sau Thế chiến hai, Mỹ và Liên Xô tự thấy họ là hai quốc gia hùng mạnh nhất thế giới với khoảng trống quyền lực giữa họ rất lớn. Chỉ riêng tình huống này đã dẫn đến sự cạnh tranh. Các hệ thống chính trị khác biệt, trải nghiệm lịch sử và các quan niệm khác nhau về cách tốt nhất để tạo ra an ninh đã dẫn đến Chiến tranh Lạnh.
Việc hé mở các tài liệu lưu trữ của Liên Xô sau Chiến tranh Lạnh đã dẫn đến sự xuất hiện của cách hiểu thứ tư. Các nhà sử học nổi tiếng như John Lewis Gaddis đã sửa đổi những lý giải trước đó của họ và đổ lỗi nhiều hơn cho Liên Xô nói chung cũng như ông Stalin nói riêng. Cách hiểu này được coi là trường phái "bình mới, rượu cũ" vì nó dẫn tới một kết luận đã có trước đây, rằng Mỹ đã đúng khi chọn đối đầu.
Căng thẳng Mỹ - Trung hiện tại
Các cách hiểu khác nhau như trên về nguồn gốc Chiến tranh Lạnh đã phản ánh các câu hỏi cũng như những tranh cãi then chốt về mối quan hệ Mỹ - Trung đương đại.
Một trường phái tư tưởng tương tự chủ nghĩa xét lại thời Chiến tranh Lạnh được coi là thiếu căn cứ vững chắc. Đúng là Mỹ từ lâu đã duy trì sự hiện diện quân sự đáng kể ở châu Á - Thái Bình Dương và có nhiều hành động khác chắc chắn chống lại một Trung Quốc đầy tham vọng.
Song, Mỹ cũng đồng thời làm nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác để tạo nên sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc, bằng bật đèn xanh cho Bắc Kinh gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), mở cửa các thị trường cho hàng hóa Trung Quốc, cho phép chuyển giao các công nghệ dân sự tiên tiến và khuyến khích Bắc Kinh gắn kết nhiều hơn, có ảnh hưởng lớn hơn trong ngoại giao khu vực và toàn cầu. Thật khó để tuyên bố rằng Mỹ "đang cố gắng kiềm chế Trung Quốc" nếu xét đến việc "Trung Quốc đã có sự tăng trưởng và phát triển ngoạn mục" kể từ khi tái lập quan hệ với Mỹ.
 |
Tàu khu trục USS Stethem của Hải quân Mỹ tại quân cảng Wusong ở Thượng Hải trong chuyến thăm hữu nghị Trung Quốc tháng 11/2015. Ảnh: THX |
Hầu hết các nhà quan sát đều thống nhất rằng, điều một số người gọi là "các hành động quả quyết mới" của Bắc Kinh bắt đầu vào các năm 2008 - 2009. Nó xảy ra giữa cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, vào thời điểm chính quyền mới của Barack Obama đang nhấn mạnh đến nhu cầu phải trấn an Bắc Kinh, đề cập đến sự xuất hiện của một thế giới đa cực và thậm chí gợi nhắc đến khả năng tạo ra cơ chế "G-2" để kiểm soát các vấn đề toàn cầu.
Như nhà khoa học chính trị Andrew Scobell đã viết, đó là kết quả nhận thức về sự yếu kém và điều đình của người Mỹ, chứ không phải nhận thức về sự thù địch gia tăng, tạo nên nền tảng cho việc gia tăng sức ép của Trung Quốc ở Biển Đông, Biển Hoa Đông và những khu vực khác.
Trường phái tư tưởng thứ hai được nhắc đến nhiều hơn, nhưng không hoàn toàn thuyết phục. Có một thực tế không ai phản bác là, Trung Quốc hiện trở nên tham vọng, quyết đoán hơn. Ở châu Á, Bắc Kinh đã đẩy mạnh việc sử dụng các biện pháp cưỡng chế quân sự, đòn bẩy kinh tế, áp lực ngoại giao và các tác động khác để tăng cường sức ảnh hưởng của Trung Quốc và hạn chế các lựa chọn của những cường quốc trong khu vực.
Không chỉ đụng độ với các nước, chẳng hạn như Nhật Bản và Ấn Độ trong các tranh chấp chủ quyền, cả về lực lượng quân sự và bán quân sự, Bắc Kinh còn đồng thời thúc đẩy các dự án địa - kinh tế quy mô lớn như Sáng kiến Vành đai và Con đường, Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á hay Quan hệ đối tác kinh tế khu vực toàn diện nhằm đưa châu Á - Thái Bình Dương vào quỹ đạo của mình.
Xa hơn ở nước ngoài, Trung Quốc được xem như một thách thức toàn cầu đối với ảnh hưởng của Mỹ. Trung Quốc đã mở rộng dấu ấn quân sự toàn cầu, sử dụng Sáng kiến Vành đai và Con đường để vươn dài sức mạnh kinh tế ra ngoài phạm vi lãnh thổ của mình. Sáng kiến "Sản xuất tại Trung Quốc năm 2025" cho thấy tham vọng giành "ngôi vương" về kinh tế từ tay Mỹ bằng bằng cách đi đầu về các đổi mới công nghệ.
Tuy nhiên, vấn đề với cách hiểu này là nó không chỉ rõ ai là nguyên nhân hay kết quả của những thay đổi trong các chính sách đối nội và đối ngoại của Trung Quốc. Việc Bắc Kinh công bố đường 9 đoạn ở Biển Đông, tăng cường sức ép với Nhật ở Biển Hoa Đông và các khía cạnh "quả quyết" khác đều có từ nhiều năm trước.
Trường phái tư tưởng thứ ba, tương ứng với chủ nghĩa hậu xét lại thời Chiến tranh Lạnh cho rằng, sự thay đổi động lực sức mạnh và bản chất của các vấn đề quốc tế đã đẩy Mỹ và Trung Quốc vào thế đối đầu. Rõ ràng, có nhiều căn cứ hậu thuẫn cách lý giải này. Sự trỗi dậy của Trung Quốc trong ba thập kỷ qua không giống bất cứ điều gì đã có trong lịch sử hiện đại.
GDP của Trung Quốc liên tục tăng từ 1.900 tỉ USD lên 8.300 tỉ USD trong giai đoạn 1998 - 2014. Chi tiêu quân sự của Trung Quốc cũng tăng từ 2,2% lên 12,2% trong tổng chi tiêu toàn cầu giai đoạn 1994 - 2015. Bắc Kinh đã thâu tóm được nhiều tính năng quân sự tiên tiến hơn bao giờ hết trong khi vẫn phát triển nền tảng kinh tế để tác động đến các quốc gia từ Đông Nam Á đến Đông Âu và xa hơn nữa.
Sự phát triển của sức mạnh Trung Quốc, đặc biệt là sức mạnh quân sự, ban đầu một phần bắt nguồn từ những lo ngại rằng Mỹ có thể biến Bắc Kinh thành đối thủ chính trong một cuộc Chiến tranh Lạnh mới. Song, càng hùng mạnh, Trung Quốc càng không giấu giếm các tham vọng, đe dọa vị thế và ảnh hưởng của Mỹ trên trường quốc tế. Tất cả những điều này rốt cuộc buộc Mỹ phải có những chính sách đối phó sắc bén và mạnh mẽ hơn, dù dưới hình thức Chiến lược bù đắp thứ ba nhằm đáp trả các khả năng chống tiếp cận khu vực của Trung Quốc hay áp thuế nhập khẩu cao hơn của chính quyền Tổng thống Donald Trump nhằm làm suy yếu sức mạnh kinh tế của Bắc Kinh.
Mỹ thoát khỏi bế tắc cách nào?
Hiện có nhiều ẩn ý về chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc. Trước hết, chẳng có nhiều điều Mỹ có thể làm trong thực tế để xoa dịu hay trấn an các lãnh đạo Trung Quốc. Trừ khi Washington rút các lực lượng quân sự về Hawaii và bỏ mặc các đồng minh của mình ở Thái Bình Dương, đồng thời ngưng ủng hộ các giá trị dân chủ họ đang theo đuổi ở nước ngoài, Trung Quốc sẽ vẫn tin rằng mục tiêu chính của Mỹ là nhằm kiềm chế sự trỗi dậy của họ.
Quan điểm này không hoàn toàn sai, nhưng bị phóng đại và nó không chỉ bắt nguồn từ những hành động của chính phủ Mỹ. Các biện pháp xây dựng lòng tin có chỗ đứng trong quan hệ Mỹ - Trung, nhưng Washington sẽ không thuyết phục được Bắc Kinh tin sự hiện diện của họ nhằm tạo ra sự ổn định và các mục tiêu của họ là vô hại.
Thứ hai, nếu Mỹ vẫn không sẵn sàng nhượng lại Bắc Kinh một phạm vi ảnh hưởng ở châu Á - Thái Bình Dương, họ cần phải tăng cường các hệ thống phòng thủ trong khu vực bằng cách củng cố cấu trúc an ninh khu vực cũng như các khả năng bảo vệ chủ quyền của chính mình. Vài năm qua đã chứng kiến sự bùng nổ của các thỏa thuận an ninh song phương, ba bên và đôi khi bốn bên giữa Mỹ và các đối tác trong khu vực cũng như những nỗ lực nâng cấp các liên minh song phương của Washington.
Đây thực sự là những bước đi tích cực, nhưng cho đến nay chúng không làm thay đổi đáng kể các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông và xa hơn ở nước ngoài, cũng như không đảo ngược những thay đổi bất lợi trong cán cân quyền lực khu vực.
Trong Chiến tranh Lạnh, chỉ khi Washington thể hiện sự sẵn sàng duy trì hiện trạng ở Tây Berlin và Tây Âu xét theo phạm vị rộng hơn, tình hình mới rơi vào thế bế tắc. Sự khác biệt giữa châu Âu vào cuối những năm 1940 và khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương ngày nay là rất lớn, nhưng những điểm tương tự mang tới một bài học trọng yếu cho các nhà hoạch định chính sách ngày nay: Các thỏa thuận an ninh mạnh mẽ với sự hỗ trợ của sức mạnh quân sự đáng gờm của Mỹ có thể làm tăng cảm giác đối kháng và nghi ngờ, nhưng chúng không thể thiếu để giữ gìn hòa bình.
Thứ ba, các quan chức Mỹ phải hiểu rằng, sự cạnh tranh là cả về địa chính trị và ý thức hệ. Đương đầu với thách thức này, họ cần phải quả quyết hơn trong việc bảo vệ nền dân chủ ở quê nhà cũng như thúc đẩy các giá trị tương tự một cách mạnh mẽ hơn ở châu Á.
Cuối cùng, cách đối phó thích hợp với Trung Quốc chỉ có được nhờ sự ủng hộ rộng rãi và bền vững. Ở Washington hiện phổ biến các tuyên bố về những cách tiếp cận của "toàn chính phủ", nhưng điều cần đạt được phải ở phạm vị rộng hơn, là cách tiếp cận của "toàn xã hội", quy tụ sự ủng hộ của cả đảng Dân chủ đối lập và công chúng Mỹ.
Quy mô và sức mạnh Trung Quốc hiện nay ám chỉ các vấn đề họ gây ra với Mỹ sẽ không sớm biến mất. Để có được sự ủng hộ của "toàn xã hội", các quan chức Mỹ cần nhận thức đúng đắn về bản chất của thách thức, giải thích rõ việc đối phó với Trung Quốc ra sao sẽ đóng vai trò trung tâm trong việc bảo vệ một thế giới dân chủ, tương đối ổn định và cởi mở như thế nào. Tương tự như trong Chiến tranh Lạnh, Washington sẽ cần một chiến lược rộng lớn và bền bỉ.
Tuấn Anh
" alt="Nguồn gốc thực sự của chiến tranh lạnh Mỹ"/>
Nguồn gốc thực sự của chiến tranh lạnh Mỹ
Mỹ đang ra sức tước đi nguồn thu từ dầu mỏ vốn là huyết mạch của nền kinh tế Iran. Nước Cộng hòa Hồi giáo bị cáo buộc là đã trả đũa bằng cách tấn công các tàu dầu ở Vịnh Ba Tư.Với việc Mỹ tăng cường hiện diện quân sự trong khu vực, và Iran vượt quá các giới hạn đã cam kết trong thỏa thuận hạt nhân năm 2015, nguy cơ tính toán sai dẫn đến chiến tranh rất dễ xảy ra dù cả Mỹ và Iran không mong muốn, theo báo Bloomberg.
Căng thẳng bùng phát thế nào?
Vào tháng 5/2018, Tổng thống Donald Trump rút Mỹ khỏi thỏa thuận năm 2015 mà Iran ký với nhóm P5+1 (Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc và Đức). Theo thỏa thuận này, Iran đồng ý với các giới hạn đặt ra đối với chương trình hạt nhân của mình để được nới lỏng cấm vận mà các nước áp đặt vì lo Tehran tìm cách phát triển bom hạt nhân.
Tổng thống Trump cho rằng ông có thể giành được một thỏa thuận tốt hơn từ Iran và bắt đầu tái áp đặt cấm vận cũ kết hợp bổ sung cấm vận mới.
Vào tháng 5/2019, Mỹ tăng cường áp lực bằng cách cho phép các miễn trừ hết hạn (trong đó cho phép 8 chính phủ mua dầu của Iran). Mục đích của chính quyền Trump là đưa xuất khẩu dầu của Iran về con số 0.
Iran bị tác động ra sao?
Iran hiện đang sản xuất dầu với tốc độ chậm chưa từng có kể từ năm 1986, khiến cho cấm vận trở thành một trong những thách thức lớn nhất mà nền kinh tế này phải đối mặt kể từ cuộc cách mạng năm 1979. Cấm vận càng tiếp sức cho lạm phát và làm suy yếu sự ủng hộ trong nước dành cho chính quyền của Tổng thống Hassan Rouhani.
Người Iran cảm thấy bị lừa. Thỏa thuận hạt nhân được kỳ vọng mang lại các lợi ích kinh tế cho Iran nhưng các đòn cấm vận trở lại của Mỹ đã đập tan niềm hy vọng đó.
Iran làm gì để đáp trả?
Iran tuyên bố sẽ không ngồi yên khi bị Mỹ trừng phạt. Nước này cho biết đã vượt qua các giới hạn nêu trong thỏa thuận về mức độ làm giàu uranium và trữ lượng uranium làm giàu.
Tehran cũng bác bỏ mọi cáo buộc của Mỹ rằng nước Cộng hòa Hồi giáo đã thực hiện một loạt vụ tấn công tàu dầu ở Vùng Vịnh thời gian qua.
Hồi tháng 7, Tehran bắt một tàu dầu Anh sau khi tàu Grace 1 chất đầy dầu lửa Iran bị chặn giữ ngoài khơi Gilbratar vì nghi chở dầu tới Syria vi phạm lệnh cấm của EU. Grace 1, hiện đã được đổi tên thành Adrian Darya 1, đã được trả tự do cách đây ít ngày, khiến Mỹ cảnh báo sẽ trừng phạt bất kỳ bên nào trợ giúp con tàu.
Mỹ ngăn các nước giao thương với Iran thế nào?
Cùng với chiến dịch cấm vận, Mỹ dựa vào vai trò nòng cốt mà các ngân hàng Mỹ và đồng đôla đang đảm trách trong nền kinh tế toàn cầu. Bất kỳ quốc gia, tập đoàn hay ngân hàng nào vi phạm các điều khoản cấm vận của Washington thì sẽ bị phong tỏa tài sản trên đất Mỹ hoặc mất khả năng chuyển tiền tới hoặc thông qua các tài khoản ở Mỹ.
Về bản chất, chính quyền Trump đã đặt cược rằng các nước, các ngân hàng và doanh nghiệp trên thế giới sẽ chọn làm ăn với Mỹ hơn là Iran. Điều này đã được chứng minh là đúng vì hầu hết các công ty châu Âu lớn đều tránh xa Iran.
Các nước châu Âu đã làm gì?
Các bên châu Âu tham gia ký kết thỏa thuận hạt nhân Iran năm 2015 đã nghĩ ra một cơ chế đặc biệt để tạo thuận lợi cho thương mại với Iran mà sẽ phá vỡ hệ thống tài chính toàn cầu mà Mỹ đang chi phối. Ý tưởng này cơ bản bắt nguồn từ việc sử dụng một hệ thống trao đổi, trong đó Iran sẽ tích lũy tín dụng cho xuất khẩu của nước này tới châu Âu rồi dùng để mua hàng từ các doanh nghiệp châu Âu. Nhưng cơ chế này, được gọi là Instex, tỏ ra không hiệu quả.
Tại sao ông Trump phản đối thỏa thuận hạt nhân Iran?
Ông Trump muốn đảm bảo Iran "không bao giờ" có được vũ khí hạt nhân. Ông cũng phàn nàn thỏa thuận không giải quyết được những gì ông coi là hành xử ác ý của Iran ở Trung Đông, sự hỗ trợ cho khủng bố hoặc chương trình tên lửa đạn đạo của nước này.
Lịch sử giữa Mỹ và Iran trải qua những gì?
Bất đồng giữa hai nước bắt nguồn từ việc Mỹ hậu thuẫn cho cuộc đảo chính năm 1953 lật đổ Thủ tướng Muhammad Mossadeg để tái lập vương triều Shah Mohammad Reza Pahlavi thân phương Tây. Khi cách mạng Hồi giáo Iran nổ ra, các sinh viên chiếm đại sứ quán Mỹ ở Tehran và bắt 52 người Mỹ làm con tin trong hơn một năm, yêu cầu Mỹ trả lại vua Shah trốn sang đó.
Đáp trả, Washington cắt đứt các quan hệ, bắt đầu cấm vận Iran và tăng dần trừng phạt theo năm tháng. Washington thậm chí liệt Tehran vào diện bảo trợ khủng bố từ năm 1984.
Tháng 4 vừa qua, chính quyền Trump "dán nhãn" tổ chức khủng bố cho Lực lượng Vệ binh Cách mạng Hồi giáo Iran (IRGC).
Rủi ro trong xung đột hiện nay?
Các quan chức châu Âu thường xuyên nhắc lại việc họ không thể ngăn chính quyền Tổng thống George W. Bush khởi xướng cuộc chiến Iraq năm 2003 như một lý do có sức nặng để cứu vãn thỏa thuận Iran.
Các lãnh đạo Mỹ và Iran tuyên bố họ không muốn chiến tranh, nhưng giới chuyên gia lo ngại chỉ một tính toán sai lầm là có thể nhanh chóng gây leo thang tình hình.
Chẳng hạn, hồi tháng 6, Mỹ suýt không kích Iran để trả đũa việc Tehran bắn hạ máy bay do thám không người lái của Hải quân Mỹ. Tổng thống Trump đã hủy chiến dịch vào phút chót với lập luận nó có thể cướp mạng sống của khoảng 150 người.
Thanh Hảo
" alt="Nguồn cơn đẩy Mỹ"/>
Nguồn cơn đẩy Mỹ