Chiều nay, tàu SAR 2727 của Trung tâm phối hợp tìm kiếm cứu nạn hàng hải Việt Nam đã đưa 2 thuyền viên Zhang Li Jin (49 tuổi, quốc tịch Trung Quốc) và Tun Tun Oo (32 tuổi, quốc tịch Myanmar) bị nạn ngoài biển về TP Vũng Tàu chữa trị.
Thỏa thuận hợp tác về phối hợp tăng cường quản lý và phát triển tài nguyên Internet trên địa bàn tỉnh An Giang vừa được Trung tâm Internet Việt Nam (VNNIC), Bộ TT&TT và Sở TT&TT An Giang ký kết.
Thời gian tới, VNNIC và Sở TT&TT An Giang sẽ phối hợp triển khai một số hoạt động trọng tâm như: Tổ chức các chương trình hội nghị, hội thảo, tập huấn, tuyên truyền nâng cao nhận thức về việc đăng ký và sử dụng tài nguyên Internet quốc gia;
Tư vấn, hỗ trợ ứng dụng công nghệ tài nguyên Internet và thúc đẩy kết nối hạ tầng số quốc gia - Trạm trung chuyển Internet quốc gia (VNIX) nhằm phục vụ các hoạt động CNTT trên địa bàn, phục vụ việc xây dựng Chính phủ điện tử và chuyển đổi số quốc gia; Phối hợp khảo sát, trao đổi các số liệu về tình hình phát triển, sử dụng Internet tại An Giang.
Đại diện VNNIC cho biết, việc mở rộng, tăng cường hợp tác với các tổ chức, cơ quan nhà nước tại địa phương là một trong những mục tiêu trọng điểm VNNIC thực hiện trong giai đoạn tới nhằm phát triển Internet Việt Nam, hỗ trợ chuyển đổi mạng Internet, hạ tầng CNTT của các tỉnh sang IPv6, phục vụ việc xây dựng Chính phủ điện tử và chuyển đổi số quốc gia.
Tính đến nay, VNNIC đã ký thỏa thuận hợp tác với 14 Sở TT&TT để triển khai hiệu quả các công tác nâng cao ứng dụng tài nguyên Internet tại địa phương. Cùng với đó, VNNIC cũng hỗ trợ 20 Sở TT&TT xây dựng kế hoạch chuyển đổi IPv6 và chuyển đổi thành công IPv6 cho Cổng thông tin điện tử của đơn vị.
Theo VNNIC, tỷ lệ ứng dụng IPv6 tại Việt Nam đạt 45,08%, xếp thứ 10 trên thế giới. Việc chuyển đổi sang Internet IPv6 là yêu cầu bắt buộc. Mục tiêu đặt ra là chuyển đổi hoàn toàn mạng Internet Việt Nam sang IPv6, 100% người dân truy cập Internet sử dụng IPv6 vào năm 2025.
Để đạt được mục tiêu trên, đại diện VNNIC nhấn mạnh, việc tăng cường ứng dụng tài nguyên Internet quốc gia cùng với quy hoạch nâng cấp, hiện đại hóa hệ thống CNTT, chuyển đổi toàn bộ hệ thống CNTT, Internet sang IPv6 theo mô hình tham chiếu về kết nối mạng cho bộ, ngành, địa phương là lộ trình cơ bản và ưu tiên để các tổ chức, cơ quan nhà nước đảm bảo sẵn sàng kết nối, an toàn hệ thống mạng, dịch vụ để phát triển các dịch vụ công trực tuyến, tiến tới xây dựng Chính phủ điện tử.
Các giải pháp cụ thể về quy hoạch hiện đại hóa hạ tầng mạng lưới dịch vụ được khuyến khích là quy hoạch mạng độc lập, kết nối đa hướng tới nhiều nhà cung cấp dịch vụ Intenret và kết nối Trạm trung chuyển Internet quốc gia (VNIX), triển khai hệ thống DNS riêng với công nghệ an toàn bảo mật DNSSEC…
Thời gian tới, VNNIC sẽ tiếp tục triển khai nhiều hoạt động thực tiễn trong khuôn khổ hợp tác với các tổ chức, cơ quan nhà nước tại địa phương nhằm thúc đẩy phát triển Internet Việt Nam bền vững, đáp ứng những yêu cầu về ứng dụng tài nguyên Internet công nghệ cao trong hành trình chuyển đổi số quốc gia.
Đại diện VNNIC cập nhật các kiến thức chuyên sâu về IPv6, DNS cho các cán bộ chuyên trách của 20 Sở TT&TT khu vực phía Nam. |
Cũng vào cuối tháng 10/2020, tại TP.HCM, VNNIC đã tổ chức chương trình tập huấn, đào tạo IPv6, DNS chuyên sâu cho khối cơ quan nhà nước tại khu vực phía Nam. Có sự tham gia của gần 60 cán bộ chuyên trách CNTT đến từ 20 Sở TT&TT khu vực phía Nam, chương trình đào tạo, tập huấn này là một hoạt động trong khuôn khổ Chương trình “IPv6 for Gov” nhằm thúc đẩy chuyển đổi Internet, hạ tầng CNTT của các cơ quan nhà nước sang IPv6.
Tham gia chương trình, các học viên đã được VNNIC cập nhật kiến thức mới nhất về IPv6, DNS cùng các khuyến nghị thực tiễn sát với hiện trạng CNTT của Bộ, ngành hiện tại nhằm đảo bảm kết nối, an toàn dự phòng cho hệ thống mạng lưới, dịch vụ trên nền tảng IPv6, hướng tới việc xây dựng Chính phủ điện tử và chuyển đổi số quốc gia.
Là chương trình hỗ trợ triển khai IPv6 cho cơ quan nhà nước trong giai đoạn 2020-2025, “IPv6 for Gov” được phát triển bởi VNNIC. Lấy khối cơ quan nhà nước làm trọng tâm, Chương trình đặt mục tiêu đào tạo mới 500 lượt chuyên gia IPv6, DNS cho cơ quan nhà nước, phục vụ mục tiêu chung là chuyển đổi hoàn toàn mạng Internet Việt Nam sang IPv6 và 100% người dân truy cập Internet sử dụng IPv6 vào năm 2025.
Vân Anh
Trong 10 tháng đầu năm 2020, Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia đã ghi nhận, cảnh báo và hướng dẫn xử lý 4.161 sự cố tấn công mạng vào các hệ thống thông tin tại Việt Nam.
" alt=""/>VNNIC, Sở TT&TT An Giang hợp tác đảm bảo an toàn trong sử dụng tài nguyên InternetNhưng liệu tất cả thông tin bạn từng nghe về mì chính có đúng?
Bột ngọt – mì chính là gia vị phổ biến trong gian bếp Việt.
Mì chính làm từ… rắn?
Ajinomoto là cái tên phải nhắc đến khi nói về bột ngọt, mì chính. Công ty có lịch sử 100 năm và sở hữu bằng sáng chế quy trình làm ra bột ngọt - loại gia vị tạo được umani, vị ngọt thịt đặc trưng có trong nước dùng.
Năm 1919, 10 năm sau khi ra mắt thị trường Nhật Bản, Ajinomoto gặp rắc rối trầm trọng bởi tin đồn gia vị của hãng làm từ… rắn. Thông tin bắt nguồn từ đâu? Không ai biết. Tuy nhiên, tin đồn “sốc” như vậy bao giờ cũng lan nhanh, đi xa và bắt đầu được truyền từ nhà hàng này sang cửa hàng khác, tạo ra một cơn khủng hoảng thật sự.
Hí họa bột ngọt Ajinomoto làm từ rắn.
Phía công ty Ajinomoto khẳng định, bột ngọt của họ không và chưa bao giờ làm từ rắn. Tại thời điểm đó, gia vị này dùng nguyên liệu hạt lúa mì. Vấn đề là làm sao xóa bỏ tin đồn vô căn cứ? Quảng cáo trên TV không thể, vì chiếc TV đầu tiên của Nhật Bản vẫn chưa sản xuất, mãi 30 năm sau mới có. Phát thanh cũng không được. Những vũ khí xử lý khủng hoảng truyền thông thời nay đều vô hiệu vào thời gian đó.
Để giải quyết, Ajinomoto ra thông cáo báo chí trên báo giấy nhằm phủ nhận luận điệu và tin đồn nói trên. Đồng thời tiến hành nếm thử công khai, thậm chí mời cả “ban nhạc đường phố” (chindon-ya) trình diễn để quảng bá sản phẩm.
Hội chứng “nhà hàng Trung Hoa”
Năm 1968, bác sĩ H.M.Kwok đăng tải trên tạp chí y học uy tín của Anh, tờ New England một bài dài, mô tả “hội chứng lạ” mà ông gặp phải khi ăn tại các nhà hàng Trung Hoa. Ông cảm thấy người bị mệt, cảm giác tê tê ở da, tim đập nhanh, hồi hộp. Bác sĩ này cho rằng gia vị đặc trưng ở những quán người Hoa gây ra hiện tượng này. Liệt kê ra thì có muối, xì dầu, rượu và dĩ nhiên là bột ngọt.
Khi nhận định này xuất hiện trên tạp chí New England, một loạt nhà hàng sợ vạ lây và nhanh chóng treo biển “không mì chính, không bột ngọt” hay “không MSG”, viết tắt của monosodium glutamate, chất có trong bột ngọt.
Nhà hàng tại phố người Hoa tại New York xuất hiện rất nhiều tấm biển ghi “không có MSG”.
Mãi đến năm 2000, bột ngọt mới được “minh oan” khi bác sĩ RaifGeha của Đại học Harvard công bố nghiên cứu kết luật rằng việc nêm chất MSG vào thức ăn không liên quan đến “hội chứng nhà hàng Trung Hoa” kia.
Bột ngọt liều cao ảnh hưởng não?
Sau tin đồn “hội chứng nhà hàng Trung Hoa”, năm 1969, một tạp chí khoa học đăng bài của bác sĩ J.W. Olney nói về nghiên cứu MSG trên chuột nhắt mới sinh. Theo đó, nếu tiêm liều cao MSG, các con vật trong thí nghiệm nảy sinh triệu chứng tổn thương não. Tin này gây chấn động đối với người dùng, nhưng may mắn đã có đính chính: đây chỉ là báo động giả.
Theo đó, lượng MSG ử dụng trong nghiên cứu đặc biệt cao - liều uống tương đương ba chai (hàng chục đến hàng trăm gam/một chai), lại tiêm vào cơ thể chưa phát triển hết. Thêm nữa, cơ thể người hoàn toàn khác với… chuột nhắt, nên không thể có sự liên hệ, suy diễn, kết luận ở đây.
Cụ thể, động vật có vú sở hữu “hàng rào máu não”, bảo vệ não khỏi tế bào, hạt và phân tử cụ thể ở trong máu. Ở chuột nhắt mới sinh, hàng rào máu não còn non nớt. Nhưng động vật linh trưởng, bao gồm loài người đều được sinh ra với hàng rào máu não hoàn thiện hơn. Điều này có nghĩa, kết quả quan sát được ở chuột nhắt trong nghiên cứu này không phản ánh điều xảy ra ở người.
Về sau, nghiên cứu của bác sĩ Takasaki (1979) và bác sĩ Helms (2017) chỉ ra rằng chế độ ăn thông thường có MSG không tác động lên não.
Hàng rào máu não bảo vệ não khỏi một số tế báo, hạt, phân tử nhất định trong máu.
Sự thật là nhiều nghiên cứu khoa học kết luận rằng MSG - chất trong bột ngọt, mì chính an toàn cho sức khỏe. Bộ Y tế, Bộ Lao động và Phúc lợi, cơ quan quản lý an toàn thực phẩm ở Nhật Bản chính thức chấp thuận MSG là chất phụ gia thực phẩm vào năm 1948. 10 năm sau đó, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ kết luận MSG an toàn.
Thêm vào đó, bắt đầu từ năm 1970, Hội đồng Chuyên gia Kết hợp về Phụ gia Thực phẩm (JECFA) của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Tổ chức Nông nghiệp và Thực phẩm còn đưa ra một loạt các tuyên bố về sự an toàn của MSG với trẻ nhỏ. Đến năm 1987, hội đồng kết luận rằng không cần hạn chế dùng MSG ở trẻ nhỏ bất cứ lứa tuổi nào.
Năm 1995, Liên đoàn Hiệp hội Sinh học Thực nghiệm Hoa Kỳ (FASEB tiến hành thêm một khảo sát toàn diện về tính an toàn của MSG. Báo cáo đưa ra 18 câu hỏi chi tiết về MSG và tái xác nhận tính an toàn của MSG đối với cơ thể người khi sử dụng ở mức độ thông thường, đồng thời không tìm thấy bằng chứng về sự liên quan của MSG với bất cứ vấn đề y học nghiêm trọng, lâu dài nào.
Doãn Phong
" alt=""/>3 nỗi oan của mì chính