Giống nho Goldtraminer không thích hợp với khí hậu ấm. Các tấm pin quang điện giúp cho khí hậu bên dưới giữ ở mức thấp hơn, cây nho được bảo vệ tránh ánh nắng trực tiếp, từ đó thời gian chín kéo dài và kiểm soát chất lượng tốt hơn.
Một lợi thế của quá trình chín kéo dài là hàm lượng đường trong nho tăng dần. Đối với cả 2 giống nho Primitivo và Goldtraminer, hàm lượng đường đều vượt quá mong đợi, hứa hẹn những loại rượu vang có hương vị đậm đà và phức hợp hơn.
La Svolta dự đoán, vụ nho năm nay đặc biệt chất lượng, trong đó giống nho Goldtraminer thích nghi ấn tượng với khí hậu ấm hơn nhờ trồng dưới các tấm pin quang điện.
Không chỉ kéo dài thời gian thu hoạch, tấm pin mặt trời còn giúp cây nho tránh được nắng nóng mùa hè. Nghiên cứu từ Đại học Verona và Bari cho thấy, hệ thống nông nghiệp và quang điện có thể giảm căng thẳng do thiếu nước trên cây trồng tới 20%, tối ưu hóa việc sử dụng nước, một yếu tố ngày càng quan trọng khi hạn hán trở nên thường xuyên hơn.
Ngoài ra, cây nho được trồng dưới các tấm pin này có khả năng sinh trưởng khỏe mạnh hơn so với những cây tiếp xúc hoàn toàn với ánh nắng mặt trời. Việc che nắng một phần giúp điều chỉnh nhiệt độ và tốc độ gió, góp phần tăng năng suất và chất lượng quả tốt hơn.
Thực tế hiệu quả của nông nghiệp và quang điện đã được chứng minh. Tại Puglia, các vườn nho của La Svolta đã thu hoạch sớm hơn bình thường do nhiệt độ mùa hè khắc nghiệt. Trong khi đó, hệ thống quang điện tại Vigna Agrivoltaica giúp cây nho phát triển chậm hơn, làm chậm quá trình thu hoạch và cho phép độ axit và lượng đường cân bằng hơn.
Đến cuối tháng 8, nho Primitivo dưới tấm pin mặt trời đo được 21 độ đường, hàm lượng đường lý tưởng để làm rượu vang, trong khi nho trong các vườn tiếp xúc hoàn toàn với ánh nắng mặt trời đã vượt quá 25 độ đường, chín quá mức để lên men rượu.
Ngoài giống nho Primitivo và Goldtraminer, kết hợp quang điện và trồng nho cũng mang lại kết quả khả quan với giống Falanghina, một loại nho trắng nổi tiếng với độ axit tự nhiên cao, lý tưởng để sản xuất rượu vang sủi bọt.
Falanghina được trồng dưới các tấm pin mặt trời đặc biệt thuận lợi cho việc phát triển rượu vang sủi bọt theo phương pháp truyền thống, nhờ vào điều kiện mát mẻ, chín chậm do các tấm pin tạo ra.
Hệ thống quang điện công nghệ màng mỏng được lắp đặt trên 3ha đất. Các tấm pin được lắp nghiêng để tối ưu hoá khả năng thu năng lượng mặt trời, chịu được gió của khu vực, công suất 970 kWp.
Theo La Svolta, mô hình kép năng lượng mặt trời và sản xuất rượu nho mang lại hiệu quả về mặt sinh thái và kinh tế, tạo ra năng lượng sạch, giảm khí thải carbon, góp phần phát triển bền vững môi trường. Hệ thống này còn tăng sản lượng nông nghiệp, mang lại hiệu quả kinh tế rõ ràng nhờ vào nâng cao chất lượng và năng suất nho.
Tại Hội nghị chuyên đề ESG 2023, Thủ tướng Thái Lan Srettha Thavisin kêu gọi tất cả bên liên quan cùng tham gia thiết lập mô hình “Saraburi Sandbox”.
Ông Bancha Chaowarin, Thống đốc tỉnh Saraburi, cho biết, “Saraburi Sandbox” là kết quả của sự hợp tác đối tác công tư (PPP). Động lực chính của dự án là khu vực tư nhân với sự hỗ trợ của chính phủ và đóng góp của các bên, triển khai nhiều dự án thí điểm như chuyển đổi sang năng lượng sạch, thúc đẩy công nghiệp xanh, sử dụng xi măng thủy lực trong tất cả dự án xây dựng tại Saraburi, quản lý chất thải bằng công nghệ, mở rộng các khu vực xanh,...
Theo ông Kitipong Promwong, Chủ tịch NXPO, nhiều hoạt động đã được triển khai.
Từ năm 2024, các công trình xây dựng tại đây phải sử dụng xi măng carbon thấp hơn.
Về nông nghiệp, người dân được hướng dẫn kỹ thuật tưới tiêu luân phiên trong canh tác lúa nhằm giảm lượng nước tiêu thụ, chi phí và khí thải nhà kính. Trên những khu vực đất không còn khả năng canh tác, nông dân trồng cỏ voi - loại cây trồng dùng làm nguyên liệu cho sản xuất viên nén gỗ. 38 khu rừng cộng đồng cũng được thiết lập nhằm tăng khả năng hấp thụ khí nhà kính, tạo tiền đề cho du lịch sinh thái.
Ông Kitipong Promwong chia sẻ, đây đều là những hoạt động giảm carbon phát thải, góp phần bảo đảm sinh kế cho người dân địa phương.
Lãnh đạo Liên đoàn Công nghiệp tỉnh Saraburi cho rằng, cần tự do hóa thương mại điện sạch thông qua hiện đại hoá lưới điện. Lĩnh vực công và tư nhân cần tận dụng chung mạng lưới điện để tiếp cận đường truyền thuận tiện hơn.
Ngoài ra, cần có chính sách để khuyến khích doanh nghiệp phát triển các công nghệ lưu trữ pin hiệu quả, tiết kiệm chi phí, có thêm các nguồn năng lượng hơn. Ba ngành công nghiệp chủ chốt tại Thái Lan gồm bao bì, ôtô, xây dựng bắt tay chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn.
Ông Chana Poomee, Chủ tịch Hiệp hội các nhà sản xuất xi măng Thái Lan, thông tin, xi măng là ngành công nghiệp chính của tỉnh Saraburi. Hiệp hội thu hút các thành viên thông qua việc sử dụng các cơ chế đổi mới, công nghệ và hỗ trợ quốc tế, để cùng hợp tác trong hệ sinh thái đô thị của Saraburi, thúc đẩy ngành công nghiệp xanh.
Hoạt động đổi mới trong lĩnh vực xi măng gồm: nghiên cứu phát triển vật liệu thay thế clinker nhằm giảm phát thải CO2 trong quá trình sản xuất và cải thiện tính chất của xi măng bằng công nghệ nano; phát triển các sản phẩm bê tông thải ít khí CO2 hơn trong quá trình sản xuất và xây dựng; phát triển công nghệ để tăng hiệu quả, giảm thời gian, nhân công và lãng phí trong xây dựng; nghiên cứu và phát triển sinh khối và nhiên liệu có nguồn gốc từ rác thải (RDF) để thay thế than; nghiên cứu và phát triển công nghệ thu hồi, sử dụng và lưu trữ carbon (CCUS).
Bên cạnh đó, Thái Lan cũng sử dụng xi măng thủy lực nhằm hướng đến phát triển sản phẩm xi măng thân thiện với môi trường. Công nghệ in phun xi măng 3D được thiết kế để giảm chất thải xây dựng.
“Saraburi Sandbox” đang bước vào giai đoạn đầy thử thách trong việc thúc đẩy sự hiểu biết và phối hợp giữa các cơ quan và cộng đồng địa phương. Tuy nhiên, còn một chặng đường dài phía trước để đạt được Net Zero.
Chia sẻ về việc lựa chọn Saraburi để triển khai dự án này, ông Thammasak Sethaudom, Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành của SCG, một trong những doanh nghiệp luôn tiên phong trong việc đẩy mạnh sáng kiến, cho biết rằng đây là tỉnh có tiềm năng thể hiện quá trình chuyển đổi của Thái Lan sang xã hội carbon thấp. Thực tế, Saraburi có hoạt động kinh tế đa dạng, gồm công nghiệp nặng, nông nghiệp, du lịch sinh thái. Saraburi nếu chuyển đổi thành công có thể thúc đẩy các tỉnh khác làm theo được.
Theo Bangkok Post, TCMA
" alt=""/>Saraburi: Mô hình thành phố carbon thấp tại Thái LanTiến sĩ Jakub Dziegielowski, thành viên của nhóm nghiên cứu đã phát triển SMFC vào năm 2019 trong thời gian học Tiến sĩ Kỹ thuật Hóa học tại Đại học Bath ở Vương quốc Anh. Dự án được thử nghiệm trên một hệ thống lọc nước ở Brazil. Hiện ông cùng nhóm nghiên cứu phát triển mở rộng quy mô của dự án.
Tiến sĩ Dziegielowski nói, trong 4 năm nghiên cứu và phát triển, nhóm của ông đã có thêm nhiều kinh nghiệm, kiến thức về quá trình điện hóa sinh học khác nhau và hiểu rõ hơn về vai trò của vi khuẩn và đất trong phương trình phức tạp.
Thông tin thu thập được giúp nhóm nghiên cứu đưa ra các giải pháp kích thích và kiểm soát các quá trình chọn lọc trong lòng đất, tối đa hóa việc khai thác năng lượng và duy trì sản xuất điện liên tục trong nhiều năm.
Trong 12 tháng tới, công ty Bactery tiếp tục tinh chỉnh các nguyên mẫu với mục đích bắt đầu sản xuất quy mô nhỏ trước khi tung ra sản phẩm thương mại vào năm 2026.
Pin vi khuẩn có thể giúp gì cho người nông dân?
Công nghệ đang phát triển nhanh chóng để giúp người nông dân thu thập dữ liệu về tình trạng của nông trại, chăm sóc cây trồng và giảm chi phí.
Nhưng các cảm biến và thiết bị kết nối internet đòi hỏi nguồn điện không phải lúc nào cũng dễ lắp đặt và bảo trì. Cáp có thể cản trở cánh đồng, pin hóa học dùng một lần cần được theo dõi và thay thế, và các nguồn năng lượng tái tạo như tấm pin mặt trời chỉ hoạt động hết công suất trong điều kiện thời tiết phù hợp.
Theo Giáo sư Mirella Di Lorenzo, một trong những giám đốc của Bactery, nông dân ngày càng coi trọng tầm quan trọng của dữ liệu để đưa ra quyết định sáng suốt hướng tới các hoạt động nông nghiệp tiết kiệm tài nguyên.
“Chúng tôi đưa ra giải pháp bền vững để cung cấp năng lượng cho các cảm biến và khiến chúng luôn bật, rẻ, ít bảo trì và ít tác động”, ông nói.
Pin của Bacteria có thể sử dụng trong hơn 25 năm và chỉ tốn 25 bảng Anh (30 euro) cho mỗi đơn vị mà không cần bảo trì. Công ty khởi nghiệp Bactery hy vọng sẽ hoàn thiện sản phẩm này trong năm tới để đưa vào sản xuất quy mô nhỏ, năm 2026 mới có sản phẩm thương mại.
(Theo Bath, Independent)